Hiện
nay, tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam, Trung Quốc và một số quốc gia
trong khu vực đang là vấn đề chính trị “nóng” của toàn khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Phía Trung Quốc liên tiếp có các hành động ngang ngược, xâm phạm
chủ quyền và cản trở các hoạt động bình thường về kinh tế, an ninh – quốc
phòng… trong phạm vi lãnh thổ của các quốc gia trong khu vực tranh chấp.
Trước những hành động phi
nghĩa đi ngược lại với chính các điều ước quốc tế, các thỏa thuận và hiệp ước
chung mà Nhà nước Trung Quốc đã kí kết, tham gia hoặc tuyên bố. Bộ Ngoại
giao Việt Nam thường
trao công hàm tới đại sứ quán nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và phát ngôn
phản đối trên phương tiện truyền thông đại chúng.
Ngày 29 – 5 – 2011 (sau sự kiện phía Trung Quốc cắt cáp tàu Bình
Minh 02), bà Nguyễn Phương Nga - người phát ngôn của Bộ ngoại giao Việt Nam nói: "…
Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt ngay, không để tái diễn những hành
động vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, đối với thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình, đồng thời bồi thường thiệt hại cho phía
Việt Nam…"
Sau một loạt hành động vi
phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia Việt Nam tháng 10 – 2012, Trả lời câu hỏi của phóng viên, Người phát ngôn Bộ ngoại
giao Lương Thanh Nghị nói: “VN yêu cầu TQ tôn trọng chủ quyền của VN, không có
thêm những hoạt động sai trái tương tự, đóng góp thiết thực vào việc phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa VN và TQ cũng như duy trì hòa bình và ổn định
trên biển Đông”…
Lời phát ngôn
cũng như các hoạt động ngoại giao trên không chỉ là các biện pháp ngoại giao
đơn thuần, và càng không thể chứng minh Nhà nước Cộng hòa xã hội xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bất lực trước những hành vi khiêu khích bằng vũ lực, quân sự của
Trung Quốc như phản hồi trên một số báo mạng, số ít thành viên của các mạng xã
hội hay một vài blogger nếu ta nhìn từ góc độ pháp lý:
Thứ nhất, nếu Nhà
nước Việt Nam tiến hành ngay các biện pháp vũ trang hoặc quân sự để trả đũa
hành vi của Trung Quốc chính là phá bỏ đi lợi thế trong việc nắm giữ các chế
định pháp lý bảo vệ mình đồng thời vi phạm các điều ước, công khai xóa bỏ các
tuyên bố thỏa thuận đã đạt được trong giải quyết vấn đề Biển Đông. Hành động
này không bao giờ cần thiết cho một Nhà nước, một dân tộc nhược yếu nắm giữ
chính nghĩa cần sự động viên, trợ giúp của nhân loại tiến bộ.
Thứ hai, việc tuân thủ các điều ước, thỏa thuận đã ký kết (trong
đó có Việt Nam và Trung Quốc) và việc tiến hành các hoạt động ngoại giao trên mang
tầm ý nghĩa và đạt hiệu quả pháp lý rất cao trong việc Nhà nước Việt Nam khẳng
định trên trường quốc tế về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển xung quanh nó. Theo luật
công pháp quốc tế, các nguyên tắc “công nhận, không phản ứng và estopel” cho
phép một quốc gia sử dụng chính các “Tuyên bố ngoại giao” và các hoạt động
ngoại giao cụ thể như: ký kết các điều ước, trao công hàm phản đối… là một biện
pháp tiên quyết và quan trọng hàng đầu trong khẳng định chủ quyền liên tục và
bảo vệ lợi ích quốc gia đối với vùng lãnh thổ đang bị tranh chấp.
Cũng cần phải thấy rằng: hành vi cương quyết, chính xác nhưng mềm mỏng về
ngoại giao của Nhà nước ta đang và sẽ tạo nên lợi thế lớn trong lập luận và
chứng cứ nếu như vụ việc tranh chấp này được đưa ra Tòa án JCJ (tòa án quốc tế
trong giải quyết các vấn đề tranh chấp chủ quyền và lợi ích quốc gia về biển
đảo). Có thể lấy ví dụ điển hình về trường hợp giải quyết giữa Singapore và Malaysia trong tranh chấp hòn đảo chiến lược
Pedra Branca của tòa án quốc tế JCJ (Singapore được lợi từ phán quyết này bởi
tôn trọng các điều ước, luật pháp quốc tế).
Ngoài ra, trên phương diện lợi ích kinh tế, vấn đề hội nhập kinh tế biển Việt
Nam ra thế giới, thu hút đầu tư quốc tế; tạo thời cờ thuận lợi củng cố thêm sức
mạnh an ninh quốc phòng, đặc biệt là tiềm lực hải quân để tự bảo vệ chủ quyền
biển đảo của tổ quốc thì yêu cầu tiên quyết là phải đảm bảo một môi trường đầu
tư ổn định, hòa bình; phải tôn trọng và thi hành đầy đủ các điều khoản của điều
ước và pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với
Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển chủ quyền xung quanh nó.
Trong lịch sử xây dựng và
giữ nước của cha ông ta hàng ngàn năm nay, chúng ta có thể tự hào về những
chiến thắng vang dội của trận thủy chiến Bạch Đằng năm 938, trận thủy chiến với
quân Nguyên Mông năm 1288, Hay gần nhất là những thành tựu ngoại giao như “hiệp
định sơ bộ 6 – 3 - 1946”, “tạm ước 14 – 9 - 1946” của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa để rồi thắng lợi nhất định sẽ về ta, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản sẽ giữ vững chủ quyền biển đảo cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Nguyễn Nam