Ngay sau
khi các phương tiện thông tin đại chúng của nước ta đồng loạt đăng tải toàn văn
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để lấy ý kiến toàn dân vào văn kiện đặc biệt
quan trọng này, nhiều trang mạng ở hải ngoại và các phần tử phản động lại tiếp
tục xuyên tạc nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước và xã hội được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp.
Một quy định tất yếu, phù hợp với yêu cầu lịch sử
Để “tấn công” vào Điều 4, một số ý kiến lập luận rằng, Hiến
pháp các năm 1946 và 1959 không có điều nào quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng “vẫn lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân đế
quốc xâm lược và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thì
cũng không nhất thiết phải xác nhận lại vai trò lãnh đạo của Đảng như trong
Hiến pháp hiện tại”(!).
Lập luận này là lập lờ, thiếu toàn diện, không có quan điểm
lịch sử cụ thể. Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 không có quy định vai trò lãnh đạo của
Đảng, vì trước đó ngày 11-11-1945, do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta
đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút lui vào hoạt động bí mật, giữ
vững vai trò lãnh đạo. Trong thập niên 50 của thế kỷ XX, đế quốc Mỹ nhảy vào
can thiệp miền Nam, đất nước ta bị chia cắt, Đảng bộ miền Nam cũng chưa ra hoạt
động công khai vì bộ luật 10-59 của ngụy quyền Sài Gòn nhằm “tiêu diệt cộng
sản” cực kỳ hà khắc, man rợ. Vì vậy, Hiến pháp 1959 cũng chưa đề cập đến vai
trò lãnh đạo của Đảng. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, dân tộc ta có chung một bản Hiến pháp
mới, trong đó khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều
này là tất yếu, phù hợp với yêu cầu lịch sử, nhiệm vụ cách mạng mới, đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân và thực hiện đúng cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Điều 4 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam,
đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được
vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
Việt Nam. Các tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.
Kế thừa tinh thần đó, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật”.
Trên cơ sở Điều 4 Hiến pháp năm 1992, Điều 4 Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp năm 1992 xác định: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; 2. Đảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; 3. Các tổ chức của
Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là
tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo
của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù
hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa
chọn.
Đảng không “đứng ngoài” Hiến pháp và pháp luật
Với mưu đồ xuyên tạc Điều 4 Hiến pháp, một số luận điệu
thường nhấn mạnh một vế là: Nếu chỉ có một Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội sẽ
dẫn tới chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ. Thế nhưng, họ cố tình không nhắc
tới hay “phớt lờ” một điểm then chốt được khẳng định trong Điều 4 là: Các tổ
chức của Đảng đều hoạt động trong khuổn khổ Hiến pháp - với tư cách là đạo luật
cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Khẳng định vai trò cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã
hội, nhưng trách nhiệm của Đảng trước đất nước, trước nhân dân ngày càng được
đề cao, nhấn mạnh rõ ràng, cụ thể hơn trong mỗi bản Hiến pháp. Nếu như Điều 4
Hiến pháp năm 1980 xác định “Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp”, thì Điều 4 Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Mọi tổ chức của Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tiếp tục tinh thần đó, Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 còn quy định thêm về việc tuân thủ, thi thành
Hiến pháp và pháp luật đối với mọi đảng viên.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ bằng cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra; mà phần cốt yếu là thông
qua đội ngũ tiền phong của mình là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu về bản
lĩnh, trí tuệ, phẩm chất và năng lực. Vì vậy, việc Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 khẳng định “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục
tiêu, lý tưởng của mình, đồng thời là giải pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống,
ngăn ngừa mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một
Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm của các
đảng viên trong việc tự giác, gương mẫu thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp
luật cũng không ngoài mục đích làm cho “đội ngũ tiên phong của Đảng” phải
thường xuyên nêu cao ý thức, thái độ, trách nhiệm cả về suy nghĩ và việc làm,
tư tưởng và hành động trong việc sống, làm theo Hiến pháp và pháp luật, làm
gương cho nhân dân noi theo.
Có ý kiến băn khoăn: Liệu có phải “luật hóa” vai trò cầm
quyền của Đảng không? Phải khẳng định rằng, dù không có một đạo luật cụ thể về
Đảng, nhưng Đảng đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, không chỉ chấp hành Hiến pháp và pháp luật,
Đảng hoạt động còn dựa trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, Quy chế làm
việc của Đảng và các chỉ thị liên quan đến việc điều chỉnh các vấn đề trong nội
bộ Đảng cũng như điều chỉnh các mối quan hệ của Đảng với Nhà nước, xã hội và
nhân dân. Thực tế trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị thể
hiện trách nhiệm của Đảng trước đất nước và nhân dân như: Quy định 76-QĐ/TW
ngày 15-6-2000 của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về việc đảng viên đang công tác ở
cơ quan, doanh nghiệp thường xuyên giữ vững mối quan hệ với chi ủy, đảng ủy cơ
sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ nơi cư trú”; Quy định 115-QĐ/TW ngày
7-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng viên không được làm và
gần đây được thay thế bằng một văn bản có tính pháp lý cao hơn là Quy định
47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về những điều
đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư
(khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp, v.v.. Chứng tỏ rằng, Đảng ta luôn tự nghiêm khắc với
chính mình thông qua việc ban hành các chỉ thị, quy định nhằm giáo dục, rèn
luyện, đưa mọi hoạt động của các tổ chức Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên vào
khuôn khổ ý thức tổ chức, kỷ luật, qua đó bảo đảm cho Đảng và mỗi cán bộ, đảng
viên không trượt ra khỏi “đường ray” Hiến pháp và pháp luật.
Đảng không “đứng trên” nhân dân
Muốn hiểu được bản chất của một đảng cầm quyền, phải nhận thức rõ mục đích hoạt
động của đảng đó là vì ai, mang lại lợi ích cho ai. Đảng Cộng sản Việt Nam, như Bác Hồ đã khẳng định “Ngoài
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì
khác”. Vì vậy, Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Việc nhiều lần Đảng ta tiến hành tự chỉnh đốn, mà gần đây
nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng
trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, được nhân
dân đồng tình, ủng hộ. Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) vừa qua, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương công khai thừa nhận và thành thật
nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây
dựng Đảng và về những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Điều
đó đã thể hiện tinh thần cầu thị nghiêm túc của Đảng, đồng thời khẳng định ý
chí quyết tâm đẩy lùi những khuyết điểm, yếu kém để Đảng không ngừng nâng cao
sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngày càng ngang tầm với
trọng trách được giao.
Đối với nhân dân Việt Nam, nói đến Đảng là nói đến tình cảm
tự nhiên, thiêng liêng, là thể hiện niềm tin và tình yêu son sắt nhân dân dành
cho Đảng. Có một sự thật mà hầu như mọi người Việt Nam ai cũng biết đó là: Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời; 30 năm kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược giành thắng lợi vẻ vang, hoàn thành sự nghiệp thống
nhất Tổ quốc, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 26 năm
đổi mới vừa là minh chứng thực tiễn sinh động, vừa là cơ sở khoa học thực tiễn
để khẳng định về vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với dân tộc và nhân dân Việt
Nam.
Nguyễn Nam (st)
1 nhận xét:
Sâu sắc đấy!
Đăng nhận xét